Đơn thuốc ngoại trú là gì? Các công bố khoa học về Đơn thuốc ngoại trú

Đơn thuốc ngoại trú là một loại đơn thuốc được viết bởi bác sĩ cho bệnh nhân để sử dụng tại nhà hoặc tại nơi khác ngoài viện trị. Đơn thuốc này thường dùng để đ...

Đơn thuốc ngoại trú là một loại đơn thuốc được viết bởi bác sĩ cho bệnh nhân để sử dụng tại nhà hoặc tại nơi khác ngoài viện trị. Đơn thuốc này thường dùng để điều trị các bệnh nhẹ, không cần nhập viện và không đòi hỏi sự chăm sóc y tế liên tục. Đơn thuốc ngoại trú thường bao gồm tên thuốc, liều lượng, cách sử dụng và thời gian sử dụng.
Đơn thuốc ngoại trú là một loại đơn thuốc được viết cho bệnh nhân để mua và sử dụng thuốc tại nhà hoặc bất kỳ địa điểm nào ngoài viện trị. Đơn thuốc này thường gồm các thông tin sau:

1. Thông tin bệnh nhân: Ghi rõ tên, địa chỉ và thông tin liên lạc của bệnh nhân.

2. Thông tin bác sĩ: Nêu rõ tên, số điện thoại và chữ ký của bác sĩ viết đơn.

3. Tên thuốc và liều lượng: Ghi rõ tên tiếng Anh và tiếng Việt, thành phần hoạt chất và liều lượng của thuốc mà bệnh nhân cần sử dụng. Ví dụ: Paracetamol 500mg, uống 1 viên mỗi 4-6 giờ khi có triệu chứng đau.

4. Cách sử dụng: Đưa ra hướng dẫn cụ thể về cách sử dụng thuốc, ví dụ: uống trước bữa ăn, sau bữa ăn, hoặc đường uống, đường tiêm, v.v.

5. Thời gian sử dụng: Xác định thời gian dùng thuốc theo số ngày hoặc tuần để đảm bảo liều lượng chính xác và hiệu quả điều trị.

6. Hạn sử dụng: Ghi rõ thời gian hết hạn sử dụng thuốc để bệnh nhân có thông tin về tính an toàn và hiệu quả của thuốc.

7. Hướng dẫn bảo quản thuốc: Đưa ra hướng dẫn cách bảo quản thuốc đúng cách để đảm bảo tính chất và hiệu quả của thuốc.

Đơn thuốc ngoại trú được viết để giúp bệnh nhân có thể tự quản lý bản thân và điều trị bệnh tại nhà mà không cần nhập viện. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và tiền bạc cho bệnh nhân và gia đình, đồng thời giúp giảm tải cho hệ thống chăm sóc sức khỏe công cộng. Để đảm bảo an toàn, bệnh nhân nên tuân thủ đúng các hướng dẫn trên đơn thuốc và tham khảo ý kiến ​​bác sĩ nếu có bất kỳ thắc mắc hoặc tác dụng phụ nào xảy ra.
Đơn thuốc ngoại trú là một tài liệu được viết bởi bác sĩ để hướng dẫn bệnh nhân về cách sử dụng thuốc tại nhà hoặc tại nơi khác ngoài viện trị. Đơn thuốc này cung cấp các thông tin chi tiết sau:

1. Thông tin về bệnh nhân: Bao gồm tên, tuổi, giới tính, địa chỉ và thông tin liên lạc của bệnh nhân.

2. Thông tin về bác sĩ: Bao gồm tên, chức danh và thông tin liên lạc của bác sĩ viết đơn.

3. Tên và liều lượng của thuốc: Đơn thuốc ngoại trú liệt kê tên các thuốc cần sử dụng và liều lượng mỗi lần dùng. Thông thường, tên thuốc được liệt kê bằng cả tên gốc và tên thương hiệu (nếu có). Ví dụ: Paracetamol 500mg (Panadol).

4. Cách sử dụng thuốc: Đơn thuốc ngoại trú cung cấp hướng dẫn chi tiết về cách sử dụng thuốc. Bao gồm cách dùng (uống, bôi, tiêm, hít, v.v.) và tần suất sử dụng (mỗi ngày, mỗi giờ, trước hoặc sau bữa ăn).

5. Thời gian sử dụng thuốc: Đơn thuốc ngoại trú cho biết thời gian bệnh nhân nên sử dụng thuốc. Điều này có thể là một số ngày cụ thể hoặc một khoảng thời gian dự kiến tùy thuộc vào loại bệnh và liều lượng thuốc.

6. Hạn sử dụng và lưu trữ: Đơn thuốc ngoại trú cung cấp thông tin về hạn sử dụng của thuốc và cách bảo quản để đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của thuốc. Ví dụ, nên lưu trữ thuốc ở nhiệt độ phù hợp và tránh ánh sáng mặt trời trực tiếp.

7. Hướng dẫn bổ sung: Đơn thuốc ngoại trú có thể cung cấp các hướng dẫn bổ sung khác như hạn chế thức ăn hoặc thuốc không nên dùng cùng lúc, các biện pháp tự chăm sóc mà bệnh nhân có thể thực hiện để giúp cải thiện tình trạng sức khỏe.

Ngoài các thông tin trên, đơn thuốc ngoại trú cũng có thể bao gồm số lượng và tần suất tái khám, ghi chú về tình trạng sức khỏe hiện tại của bệnh nhân hoặc các hướng dẫn nhặt thuốc tại nhà thuốc.

Đơn thuốc ngoại trú có vai trò quan trọng trong việc đảm bảo bệnh nhân hiểu rõ về cách sử dụng thuốc và tuân thủ chính xác theo hướng dẫn của bác sĩ. Điều này giúp đảm bảo rằng việc điều trị được thực hiện đúng cách và mang lại hiệu quả tốt nhất cho bệnh nhân.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đơn thuốc ngoại trú":

TÌNH HÌNH SỬ DỤNG THUỐC ỨC CHẾ BƠM PROTON TRONG KÊ ĐƠN THUỐC BẢO HIỂM Y TẾ NGOẠI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH SÓC TRĂNG NĂM 2020
Đặt vấn đề: Thuốc ức chế bơm proton có hiệu quả cao trong việc làm giảm các triệu chứng gây ra do tăng tiết acid dịch vị và nhìn chung được dung nạp khá tốt nên thường bị lạm dụng trong một số trường hợp. Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sóc Trăng là bệnh viện tuyến cuối của tỉnh nên việc sử dụng PPIs cũng trở nên phổ biến. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát đặc điểm sử dụng thuốc ức chế bơm proton; Xác định tỷ lệ tương tác thuốc và sử dụng thuốc ức chế bơm proton an toàn, hợp lý cho bệnh nhân ngoại trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Sóc Trăng năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, được thực hiện trên 343 toa thuốc có sử dụng thuốc ức chế bơm proton; Phân tích và xử lý số liệu bằng phần mềm Microsoft Excel 2016 và SPSS 26.0. Kết quả: Tỷ lệ toa thuốc có chỉ định ức chế bơm proton dùng chung với các nhóm thuốc khác có khả năng tương tác bất lợi là 12,83%; Tỷ lệ toa thuốc có chỉ định thuốc ức chế bơm proton an toàn, hợp lý là 73,47%. Kết luận: Đặc điểm sử dụng PPI: tỷ lệ sử dụng PPI chiếm tỷ lệ 21,8%; PPI được chỉ định nhiều nhất là Omeprazole; độ tuổi ≥60 tuổi được kê đơn nhiều nhất (chiếm tỷ lệ 50,74%); tỷ lệ chỉ định PPI ở nữ giới là 50,73%, chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới (49,27%). Tỷ lệ tương tác thuốc của PPI với các thuốc dùng chung là 12,83%. Tỷ lệ chỉ định PPI chưa an toàn, hợp lý: các trường hợp chỉ định PPI chưa an toàn, hợp lý là 26,53%.
#Thuốc ức chế bơm proton #sử dụng thuốc hợp lý
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH KÊ ĐƠN THUỐC ỨC CHẾ BƠM PROTON TRONG ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI TRUNG TÂM Y TẾ HUYỆN CHỢ GẠO NĂM 2020
  Đặt vấn đề: Sử dụng chưa hợp lý thuốc ức chế bơm proton (PPIs) sẽ dẫn đến nhiều tác dụng phụ, can thiệp sử dụng PPIs hợp lý và an toàn để tăng hiệu quả điều trị và tiết kiệm kinh tế. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ kê đơn và yếu tố liên quan đến việc kê đơn thuốc ức chế bơm proton ngoại trú chưa an toàn, chưa hợp lý theo phác đồ điều trị tại khoa khám bệnh - Trung tâm Y tế huyện chợ Gạo năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 346 đơn thuốc có sử dụng PPIs tại khoa Khám bệnh được chỉ định PPIs từ tháng 05 đến tháng 08 năm 2020. Phân tích xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS22. Kết quả: Trong 346 đơn thuốc đưa vào nghiên cứu ghi nhận sử dụng thuốc chưa an toàn chiếm 10,7%, sử dụng thuốc PPIs chưa hợp lý 19,9%. Nghiên cứu ghi nhận yếu tố phòng khám nội, bác sĩ có trình độ sau đại học làm tăng nguy cơ xuất hiện đơn thuốc chưa hợp lý. Ngược lại bác sĩ có trình độ đại học làm tăng nguy cơ sử dụng PPIs chưa an toàn. Kết luận: Tỷ lệ sử dụng PPIs chưa an toàn chiếm 10,7%, chưa hợp lý chiếm 19,9% trình độ bác sĩ là yếu tố cần quan tâm khi can thiệp dược lâm sàng đặc biệt là với bác sĩ phòng khám nội.
#PPIs #bệnh nhân ngoại trú #Trung tâm Y tế huyện Chợ Gạo
Khảo sát các vấn đề liên quan đến thuốc qua đơn thuốc kê cho bệnh nhân khám bệnh ngoại trú của một bệnh viện hạng một tại thành phố Hồ Chí Minh, năm 2021
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm xác định các vấn đề liên quan đến thuốc (Drug-related problems, DRPs) trong đơn thuốc kê cho bệnh nhân ngoại trú. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên đơn thuốc của bệnh nhân ngoại trú trong khoảng thời gian từ ngày 01/4/2021 đến ngày 29/04/2021. DRPs được phân loại theo hệ thống phân loại của Mạng lưới chăm sóc dược châu Âu (PCNE) phiên bản 9.1 và mức độ ảnh hưởng lâm sàng tiềm tàng của DRPs được đánh giá bởi hai chuyên gia theo hướng dẫn của Hội đồng Điều phối Quốc gia về Báo cáo và Phòng ngừa sai sót trong sử dụng thuốc (NCC - MERP). Các yếu tố liên quan đến DRPs được xác định bằng mô hình hồi quy logistic đa biến. Kết quả: Chúng tôi khảo sát được 1280 đơn thuốc. Tuổi trung vị của BN là 63 (54-70). Hơn một nửa BN là nữ (57,9%). Tổng số DRPs được xác định là 1594, khoảng 70% bệnh nhân có ít nhất 1 DRP. DRPs phổ biến nhất là thời điểm dùng thuốc (61,3%), tiếp theo là tần suất dùng thuốc (12,8%). Các loại DRPs còn lại có tỉ lệ thấp. Tỷ lệ % DRPs gây hại cho bệnh nhân được đánh giá bởi chuyên gia 1 và chuyên gia 2 lần lượt là 7,1% và 5,5%, với mức độ đồng thuận khá (Cohen’s kappa = 0,61, p<0,05). Đơn thuốc của bệnh nhân nam, ≥ 5 thuốc, có thuốc nhóm A, nhóm M, nhóm N có nhiều nguy cơ xảy ra DRPs. Các bệnh nhân mắc bệnh lý cơ, xương, khớp và mô liên kết, đơn thuốc được kê bởi bác sĩ nam ít có nguy cơ gặp phải DRPs (p < 0,05). Kết luận: Tỉ lệ đơn thuốc có DRP khá cao. Việc cung cấp thông tin cho bác sĩ về các loại DPRs phổ biến, đặc biệt là các DRPs gây hại tiềm tàng có thể giúp giảm thiểu DRPs.
#Các vấn đề liên quan đến thuốc #đơn thuốc ngoại trú
HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN SỬ DỤNG THUỐC BỆNH NHÂN NGOẠI TRÚ
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 62 Số 6 (2021) - 2021
Mục tiêu: Khảo sát nhu cầu được tư vấn của bệnh nhân và hoạt động động tư vấn sử dụng thuốc cho bệnh nhân ngoại trú tại Bệnh viện Thống Nhất. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 120 bệnh nhân được cấp phát thuốc BHYT đang chờ lấy thuốc, trước khi vào phòng tư vấn thuốc và 60 cuộc hội thoại tư vấn về sử dụng thuốc của các dược sĩ cho bệnh nhân từ ngày 01/9/2020 đến ngày 01/12/2020 tại Bệnh viện Thống Nhất. Kết quả: Bệnh nhân có nhu cầu muốn được tư vấn sử dụng thuốc (58,33%). Lý do bệnh nhân không muốn được tư vấn sử dụng thuốc chủ yếu do bệnh nhân đã được điều trị lâu ngày (79,49%) và đã được bác sĩ tư vấn (58,97%). Các bệnh nhân muốn tư vấn cả về thuốc và về bệnh của họ, chiếm tỷ lệ 61,43%. Đa số bệnh nhân tham gia nghiên cứu được tư vấn đầy đủ các nội dung và các loại thuốc theo đơn (61,67%). Trước khi dược sĩ bắt đầu tư vấn đa số các bệnh nhân đưa ra câu hỏi với nội dung tư vấn chung (55,0%). Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân có nhu cầu muốn được tư vấn sử dụng thuốc ở mức trung bình. Lý do bệnh nhân không muốn được tư vấn sử dụng thuốc chủ yếu do bệnh nhân đã được điều trị lâu ngày và đã được bác sĩ tư vấn. Chủ yếu bệnh nhân muốn tư vấn cả về thuốc và về bệnh của họ. Đa số bệnh nhân được tư vấn đầy đủ các nội dung và các loại thuốc theo đơn.
#Tư vấn sử dụng thuốc #bệnh nhân ngoại trú
NGHIÊN CỨU TƯƠNG TÁC THUỐC CÓ Ý NGHĨA TRONG THỰC HÀNH LÂM SÀNG VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y DƯỢC CẦN THƠ NĂM 2021
Đặt vấn đề: Tương tác thuốc là một trong các vấn đề thường gặp và việc đánh giá tương tác thuốc cần dựa trên sự đồng thuận từ nhiều cơ sở dữ liệu. Mục tiêu nghiên cứu: 1. Xác định tỷ lệ và mức độ các tương tác thuốc có ý nghĩa lâm sàng xảy ra trong đơn thuốc ngoại trú tại Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2021; 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến tương tác thuốc có ý nghĩa lâm sàng trong đơn thuốc ngoại trú. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 612 đơn thuốc ngoại trú tại Khoa Khám bệnh Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Cần Thơ năm 2021. Đánh giá tương tác thuốc bằng 3 trang web: Drugs.com, Medscape và IBM Micromedex. Kết quả: Đơn thuốc có 2-4 thuốc có tỷ lệ xuất hiện tương tác thuốc có ý nghĩa lâm sàng là 28,4%, đơn thuốc có 5-7 thuốc có tỷ lệ là 69,5% và đơn thuốc có 8 thuốc trở lên có tỷ lệ là 91,7%. Đơn thuốc của bệnh nhân dưới 60 tuổi có tỷ lệ xuất hiện tương tác thuốc có ý nghĩa lâm sàng là 49,8%, đơn thuốc của bệnh nhân từ 60 tuổi có tỷ lệ là 79,2%. Có mối liên quan giữa tương tác thuốc có ý nghĩa lâm sàng với số lượng thuốc sử dụng trong đơn thuốc và tuổi của bệnh nhân. Kết luận: Có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa số lượng thuốc trong đơn và tuổi đến khả năng xảy ra tương tác thuốc có ý nghĩa lâm sàng (p<0,001).    
#Tương tác thuốc #ý nghĩa lâm sàng #đơn thuốc ngoại trú
Khảo sát tình hình kê đơn thuốc giảm đau, chống viêm không steroid (NSAIDs) trên bệnh nhân xương khớp ngoại trú tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2021
Mục tiêu: Đánh giá tình hình kê đơn NSAIDs điều trị cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tại Phòng khám Cơ xương khớp-Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2021. Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu, mô tả cắt ngang, thông tin được thu thập từ các đơn thuốc điện tử của bệnh nhân điều trị ngoại trú các bệnh xương khớp được kê đơn NSAIDs. Kết quả: 2.102 lượt bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, với các kết quả: Bệnh cơ xương khớp thường gặp nhất tại bệnh viện là thoái hoá khớp, số thuốc trung bình trong một đơn thuốc là 3,2, số NSAIDs trung bình trong 1 đơn thuốc là 1,1, trên 95% số đơn thuốc dùng 1 NSAIDs, các kiểu phối hợp thường gặp là 1 NSAID uống và 1 NSAID bôi ngoài da, thuốc ức chế không chọn lọc COX chiếm tỷ lệ sử dụng cao nhất; tác dụng phụ hay gặp phải là đau thượng vị (7,1%), để hạn chế các tác dụng không mong muốn của NSAIDs, nhóm thuốc kháng acid và các thuốc chống loét khác tác dụng trên đường tiêu hoá được kê kèm theo đơn với tỷ lệ cao (83,3%). Số ngày sử dụng NSAIDs chủ yếu từ 4-7 ngày (82,5%). Kết luận: Qua khảo sát việc kê đơn NSAIDs tại Phòng khám Cơ xương khớp-Bệnh viện Trung ương Quân đội 108: Bệnh nhân điều trị bệnh xương khớp đa số có độ tuổi từ 40 trở lên, bệnh thoái hóa khớp là bệnh có tỷ lệ cao. Số thuốc NSAIDs trung bình là 1,1 thuốc/đơn, có 8 nhóm dùng phối hợp với NSAIDs. Số ngày sử dụng NSAIDs chủ yếu là 4-7 ngày. Phản ứng không mong muốn hay gặp phải trong nghiên cứu là đau thượng vị.
#NSAIDs # #điều trị ngoại trú
Khảo sát đặc điểm bệnh nhân và tình hình sử dụng thuốc của bệnh nhân ngoại trú có sử dụng bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Khảo sát đặc điểm bệnh nhân và tình hình sử dụng thuốc của bệnh nhân ngoại trú có sử dụng bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, hồi cứu dữ liệu. Thu thập số liệu từ 400 đơn thuốc của bệnh nhân có sử dụng bảo hiểm y tế tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 01/12/2022 đến 31/12/2022. Kết quả: Tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 62,75 ± 14,56 tuổi (nhỏ nhất 13, lớn nhất 92 tuổi) trong đó số lượng bệnh nhân nam chiếm 56,5%; nữ chiếm 43,5%. Nhóm bệnh thường gặp nhất là nhóm bệnh hệ tuần hoàn (38,34%). Số thuốc trung bình trong một đơn thuốc là 6,18 ± 2,27 thuốc. Số đơn thuốc nhóm > 5 thuốc chiếm tỉ lệ cao nhất (59,8%), nhóm từ 2-3 thuốc chiếm tỷ lệ nhỏ 10,5%. Tỷ lệ đơn thuốc xuất hiện tương tác thuốc là 44,8%. Trong đó số đơn thuốc có tương tác có ý nghĩa lâm sàng chiếm 27,93%. Số đơn thuốc có 1 tương tác chiếm tỉ lệ cao nhất là 82%. Số đơn thuốc có 3 tương tác chiếm tỉ lệ thấp nhất là 2%. Kết luận: Phần lớn các bệnh nhân bảo hiểm y tế đến khám và điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 là người cao tuổi với nhiều bệnh nền. Do vậy cần chú ý nhiều hơn về kiểm soát bệnh nền của bệnh nhân và tương tác thuốc trong đơn thuốc của bệnh nhân.
#Bệnh nhân #điều trị ngoại trú #bảo hiểm y tế #Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 #đơn thuốc
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THUỐC TRONG KÊ ĐƠN ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI TẠI TRUNG TÂM Y TẾ TRÀ CÚ, TỈNH TRÀ VINH NĂM 2022
Tạp chí Y Dược học Cần Thơ - Số 61 - Trang 50-56 - 2023
Đặt vấn đề: Việc sử dụng thuốc không hợp lý ở người cao tuổi dễ gây nên các vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc (DRPs). Các vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc phổ biến ở người cao tuổi bao gồm: sự không hiệu quả của thuốc, chỉ định chưa phù hợp, dùng quá liều, dùng chưa đủ liều thuốc và tương tác thuốc. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ xuất hiện một số vấn đề liên quan đến thuốc trong kê đơn điều trị ngoại trú trên bệnh nhân cao tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện trên đơn thuốc điều trị ngoại trú của bệnh nhân người cao tuổi có bảo hiểm y tế và bác sĩ điều trị tại Trung tâm Y tế Trà Cú, tỉnh Trà Vinh trong năm 2022. Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phương pháp thu thập số liệu hồi cứu. Kết quả: Trong 450 đơn thuốc ngoại trú của bệnh nhân cao tuổi được khảo sát. Tỷ lệ xuất hiện ít nhất một vấn đề liên quan đến sử dụng thuốc là 249 đơn thuốc chiếm 55,3%. Trong đó, nhóm DRP về chỉ định dùng thuốc chưa hợp lý là 6,9%, nhóm DRP về liều dùng chưa hợp lý 21,5%, nhóm số lần dùng thuốc chưa hợp lý 38,7%, nhóm DRP về thời điểm dùng thuốc trong ngày chưa hợp lý 28,9%, nhóm DRP về thời điểm dùng thuốc so với bữa ăn là 12% và tương tác nghiêm trọng của thuốc trong đơn là 6,4%. Kết luận: Tỷ lệ DRP liên quan đến kê đơn cho người cao tuổi là khá cao. Lựa chọn số lần dùng thuốc chưa phù hợp, thời điểm dùng thuốc chưa chưa hợp lý và lựa chọn liều dùng chưa phù hợp là DRP phổ biến nhất trong nghiên cứu của chúng tôi.
#Đơn thuốc ngoại trú #DRPs #người cao tuổi
KHẢO SÁT CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN THUỐC TRÊN BỆNH NHÂN ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI MỘT BỆNH VIỆN ĐA KHOA THUỘC THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 518 Số 1 - 2022
Ðặt vấn đề: Các vấn đề liên quan đến thuốc (Drug-related problems, DRPs) thường gặp ở bệnh nhân (BN) ngoại trú, có thể làm giảm hiệu quả và an toàn trong điều trị. Do đó, việc xác định DRPs trong kê đơn và các yếu tố liên quan là cần thiết để tối ưu hóa việc điều trị. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tần suất, các loại DRPs trong kê đơn cho BN ngoại trú và các yếu tố liên quan đến sự xuất hiện DRPs. Ðối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành trên các đơn thuốc của BN điều trị ngoại trú tại một bệnh viện đa khoa hạng 1 ở thành phố Thủ Đức, từ 1/11/2021 đến tháng 15/11/2021. DRPs được xác định bằng cách so sánh đơn thuốc được kê với các nguồn tài liệu tham khảo: Tờ hướng dẫn sử dụng thuốc, Dược thư quốc gia Việt Nam 2018, Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Bộ Y tế, Uptodate và eMC. Sau đó, DRPs được phân loại theo Hệ thống chăm sóc dược Châu Âu (Pharmaceutical Care Network Europe, PCNE) phiên bản 9.1. Các yếu tố liên quan đến sự xuất hiện DRPs được xác định bằng mô hình hồi quy logistic đa biến. Kết quả: Có 5773 đơn thuốc được khảo sát (tuổi trung vị của BN là 60 (50 – 67), nữ chiếm 54%). Tỷ lệ đơn thuốc có ít nhất 1 DRP là 66,9%. Các loại DRPs ghi nhận được liên quan đến lựa chọn thuốc (6,7%), liều dùng (29,8%), tần suất dùng thuốc (24,0%) và thời điểm dùng thuốc (26,8%). BN có ≥ 3 bệnh kèm, sử dụng ≥ 5 loại thuốc có nguy cơ gặp phải DRP cao hơn so với BN có ít bệnh kèm hơn hay sử dụng thuốc ít hơn (OR lần lượt là OR =1,358, CI:1,201 – 1,536, p < 0,001; OR =3,814, CI:3,133 – 4,641, p < 0,001). Đơn thuốc ở phòng khám nội tiết ít xảy ra DRP hơn (OR =0,736, CI:0,628 – 0,862, p < 0,001) và đơn thuốc của phòng khám nội tổng hợp có nguy cơ gặp phải DRP cao hơn hơn phòng khám nội tim mạch (OR =2,068, CI:1,782 – 2,400, p < 0,001). Đơn thuốc của bác sĩ nam liên quan đến việc tăng nguy cơ xảy ra DRP so với đơn thuốc của bác sĩ nữ (OR =1,330, CI:1,178 – 1,503, p < 0,001). Chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan giữa tuổi, giới tính của BN và học vị bác sĩ đến sự xuất hiện DRPs. Kết luận: Khoảng hai phần ba đơn thuốc của BN ngoại trú có ít nhất 1 DRP. Cần có can thiệp phù hợp, đặc biệt trên các đơn thuốc của BN có nhiều bệnh kèm hay sử dụng nhiều thuốc, để giảm thiểu DRPs trong kê đơn.
#Các vấn đề liên quan đến thuốc #kê đơn #bệnh nhân ngoại trú
Tổng số: 60   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6